Văn Mẫu 12: Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Mị

Rate this post

Nhân vật Mị trong tác phẩm Vơ Chồng A Phủ là biểu tượng cho người phụ nữ thời đại mới, dám đứng lên, chống lại cái ác để bảo vệ sự sống và tự do của bản thân mình. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về những nét đẹp của nhân vật này qua các bài văn mẫu và dàn ý phân tích nhân vật Mị nhé!

>>>> Xem thêm: Gia sư môn Văn Lớp 12

1. Dàn ý đại cương phân tích nhân vật Mị

  • Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật Mị
  • Thân bài:
    • Khái quát về nhân vật Mị
    • Phẩm chất của nhân vật Mị
    • Cuộc sống của Mị khi ở nhà Thống lí Pá Tra
    • Sức sống tiềm tàng của Mị
  • Kết bài: Đánh giá lại nhân vật Mị

2. Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật Mị

Mở bài

  • Tác giả: Tô Hoài là người lấy những cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của miền núi để làm cảm hứng sáng tác ra các tác phẩm văn học, yêu cái đẹp bình dị, dân dã của người dân vùng cao.
  • Tác phẩm: “Vợ Chồng A Phủ” là truyện ngắn đại diện cho chất riêng của Tô Hoài – viết về con người Tây Bắc với sức sống tiềm tàng đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.
  • Nhân vật Mị: Đại diện cho hình ảnh người phụ nữ dù trong cảnh khó khăn, áp bức vẫn khao khát được sống → biểu tượng đẹp cho sức sống mãnh liệt

Thân bài

Khái quát về nhân vật Mị

  • Là người con gái thùy mị, nết na
  • Là người khao khát được sống, được hạnh phúc
  • Là người phụ nữ can đảm, biết vùng lên đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc và cuộc sống của mình
  • Là người con hiếu thảo, vâng lời cha mẹ.
  • Ngoại hình, tư thế, công việc được miêu tả: “ cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa…” khuôn mặt của cô thì “ Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,… mặt buồn rười rượi”.
Dàn ý Phân tích nhân vật Mị
Dàn ý Phân tích nhân vật Mị

Phẩm chất của nhân vật Mị

  • Mị là người con gái mới lớn, trẻ trung, hồn nhiên, đặc biệt là có tài thổi sáo
  • Được nhiều chàng trai trong làng để ý
  • Luôn mong muốn đi theo tiếng gọi của con tim
  • Hiếu thảo, chăm chỉ, hiểu được giá trị của tự do

Nhân vật Mị trước khi về làm dâu

  • Là người con gái tự do, hồn nhiên, trong sáng
  • Có tài thổi sáo khiến bao chàng say đắm
  • Từng yêu và được yêu nồng cháy nên luôn khát khao được đi theo tiếng gọi của con tim

→ Trước khi bước vào những ngày tháng giông tố của cuộc đời, Mị đã có một cuộc sống bình yên, tươi đẹp như bao cô gái tuổi trăng tròn khác

Cuộc sống của Mị khi ở nhà Thống lí Pá Tra

  • Hoàn cảnh: Vì thương cha nợ nần nên đã vào làm dâu nhà Thống lí Pá Tra
  • Khi về làm dâu, bị thống lý đối xử tàn ác, đánh đập, bóc lộn sức lao động → địa ngục trần gian
  • Bị đối xử tệ đến mức chai lỳ với nỗi đau, làm việc không quan tâm đến thời gian và không gian → cái xác không hồn
  • Cô cứ sống lầm lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa, khổ mãi rồi cũng quen.
  • Không chỉ hành hạ bởi thể xác mà còn bị đầu độc bởi thần quyền → chế độ quan lại miền núi trước cách mạng, sức mạnh thần quyền thật đáng sợ → trói buộc con người ta trong vô thức→ tê liệt về ý thức và không biết phản kháng.

→ Nạn nhân của những áp bức bất công, mang nỗi khổ cả về thể xác lẫn tinh thần

→ Nhà văn đặt nhân vật trong hoàn cảnh đối lập: Một bên là cô gái làm việc quần quật suốt ngày đêm với một bên là sự giàu có của nhà Thống lí

Sức sống tiềm tàng của Mị

  • Nhìn thấy bức tranh mùa xuân → bồi hồi nhớ lại những ký ức xưa cũ
  • Chất xúc tác biến Mị thành con người khác là rượu và tiếng sáo
  • Người ta nói khi uống rượu vào là con người sống thật với trái tim mình nhất, sẽ bộc lộ hết những cảm xúc giấu kín → Sau khi uống rượu Mị như bừng tỉnh khỏi cơn mê → tất cả đã trỗi dậy sau sự kìm nén bấy lâu nay → Mị nổi loạn
  • Mị nhớ lại những ngày còn là con gái, còn được vui chơi, thỏa thích → hạnh phúc tột cùng và chỉ mong có thể thoát khỏi nơi đây.
  • Ngọn đèn dầu thắp lên cũng chính là tia hy vọng cuối cùng cho cuộc đời Mị, chính là ngọn lửa của khát vọng được sống đúng với bản thân mình, mong ước được sống dậy với những ngày trẻ → Mị “quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”… làm đẹp cho chính bản thân.
  • Dù bị A Sử trói vào cột nhà nhưng Mị vẫn hướng về một hạnh phúc, một tuổi xuân tươi đẹp → không cảm thấy đau

→ Mị 5 lần 7 lượt muốn thoát khỏi địa ngục trần gian này nhưng chính những kỷ niệm đẹp nhất của quá khứ đã khiến Mị sống dậy, nuôi dưỡng lòng tin và khát vọng sống.

Kết bài

  • Nhân vật Mị biểu tượng cho sự tự do, dám đứng lên chống lại những áp bức bóc lột
  • Là “nét mực” tô đậm sự tàn ác của chế độ phong kiến
  • Đại diện cho cái đẹp, khát khao được sống, được hạnh phúc

3. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Mị

4. Bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị

Bài mẫu 1

Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.

Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.

Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bước ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.

Phân tích nhân vật Mị
Phân tích nhân vật Mị

Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sáo nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Ngọn lửa khao khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha con nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù đầy, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.

Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.

Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.

Bài mẫu 2

Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn.

Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết.

Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.

Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

Bài mẫu 3

Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX thì đề tài miền núi khá là được chú ý. Dù chủ đề cũ nhưng nhà văn luôn có cách khai thác vấn đề rất sâu, làm bật lên hình ảnh nhân vật. Mỗi nhà văn sẽ có những cái nhìn khác nhau và Tổ Hoài đã thể hiện Sự đồng cảm trước thân phận khổ đau của người dân miền núi, đặc biệt là phụ nữ điển hình trong tác phẩm này là Mị của Tô Hoài sẽ khác với những nhà văn khác, đó là một điểm riêng ở Tô Hoài.

Trong Vợ Chồng A Phủ Mị được khắc họa lên là một cô gái có số phận éo le, tủi phận nhưng phẩm chất đẹp vô cùng. Cô gái đẹp người Mèo này sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những phong tục vô lí, áp bức. Bố mẹ Mị khất nợ nên Mị chính là người bị bắt để trả món nợ này, chủ nợ là Thống lí Pá Tra đòi bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây bao đau thương, tủi nhục của cô gái này bắt đầu xảy ra, mang danh là về làm dâu nhưng thực chất là nô lệ cho nhà thống lí. Mị trở thành một cô gái vô cảm trước mọi thứ, tê liệt ý thức, sống mà như không sống chính vì những thói áp đặt, vũ phu đánh đập, tra tấn tàn bạo khiến Mị đau khổ không nói nên lời, cuộc sống từng phút giây như đày đọa.

Từ khi cuộc sống của Mị bị cuồng chân trong nhà Thống Lí thì những giấc mơ của Mị tan biến, phai mờ dần trong tâm trí và cô ngày ngày phục vụ không công còn bị đối xử tàn ác. Khi làm dâu nhà giàu những tưởng Mị sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy nhưng không phải, tất cả chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Mị ngày qua ngày lầm lũi trong bếp, nơi xó cửa làm việc quần quật từ sáng đến khuya. Năm này qua năm khác Mị chỉ quanh quẩn trong căn phòng mờ tối, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa sổ bé tí chẳng biết là sương hay khói. Mị, từ một cô gái tuổi xanh tươi, trăng tròn với bao khát vọng, yêu đời thì bỗng trở thành một người phụ nữ dần tàn lụi, cam chịu. Mị làm việc không có thời gian nghỉ, quần quật từ sáng đến tối “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả ngày lẫn đêm”. Có thể thấy số phận của côn vùi chôn, giờ chỉ còn là một cô Mị chịu đựng sống một cách vô nghĩa, không chút cảm xúc nữa rồi. Sau nhiều lần buồn đau, kháng cự, lấy lá ngón để mà tìm đến cái chết, kết liễu đời mình giải thoát tất cả mà không được thì giờ đây Mị chẳng tha thiết gì, cảm xúc trong cô chai sạn đi.

Phân tích nhân vật Mị
Phân tích nhân vật Mị

Dù rằng bên ngoài thấy Mị mặc kệ trước mọi thứ nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của cô gái trẻ này vẫn luôn âm ỉ một khát khao cháy bỏng được tự do, được sống là chính mình, cuộc sống của riêng cô. Lòng ước muốn ấy nó như lớp lửa nhỏ âm ỉ trong lớp tro tàn kia, chỉ cần một làn gió thổi qua sẽ khiến nó bùng thật mạnh mẽ. Chính vì bị ép vào đường cùng, thương và hiếu thảo với cha mẹ nên Mị phải hi sinh bản thân để cứu gia đình nên cô đành sống kiếp người đen tối, đau khổ.

Đêm mùa xuân năm ấy lại đến rộn ràng, náo nức khắp đất trời với tiếng nhảy múa, ca hát, thổi sáo hòa trong bản giao hưởng thiên nhiên. Lúc này ở trong nhà nghe vọng vào, Mị không còn lầm lì trong cảm xúc chai sạn nữa, cảm xúc được đánh thức trở lại. Tiếng sáo vang lên trong đầu Mị những giai điệu vui tươi, Mị nhẩm bài hát nhớ về những tháng ngày đẹp đẽ đã từng có. Không chịu đựng Mị lấy rượu uống ừng ực để quên đi bao sầu đau, tủi hờn. Khi đó Mị như thấy mình trẻ lại, Mị vui lắm hừng hực sức sống trở lại và Mị vùng lên sửa soạn đi chơi. Thế nhưng mọi thứ đang dang dở thì A Sử phát hiện và trói Mị vào cột. Lúc này cơn đau từ tâm hồn đến thể xác trỗi dậy. Mị khao khát được đi chơi nhưng A Sử đã dập tắt, bóp chết khát khao mong manh kia.

Một lần nữa sức sống trong Mị trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thấy A Phủ – một tôi tớ cho Thống Lí đang bị trói. Nước mắt của A Phủ rơi xuống thức tỉnh Mị phải vùng dậy đòi lấy quyền được sống, được yêu thương, tự do cho chính mình. Thế là Mị đã cùng A Phủ trốn thoát tìm lấy cuộc sống tự do của riêng họ.

Tô Hoài đã rất tài tình trong nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị. Chính ngòi bút tinh tường ấy đã dẫn lối người đọc len lỏi vào trong tâm hồn, cảm xúc của Mị, nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của cô gái này.

Bài mẫu 4

Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.

Ông đã có hơn nửa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – 1996). Nhà văn đã gửi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng ven thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi. Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.

Trước hết, chúng ta thấy Mị là một cô gái con nhà nghèo, xinh đẹp, ham sống, có đời sống tinh thần phong phú. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Nhưng đó không phải là lý do để các chàng trai tốt bụng xa Mị. Trái lại, đến tuổi yêu đương, Mị được nhiều chàng trai mê say vì sắc đẹp, vì phẩm hạnh, suốt đêm đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mị. Và bản thân Mị cũng thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi khi tiếng sáo vọng lại, lòng Mị cũng thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mặc dù ham sống như thế nhưng có lúc Mị muốn tự kết liễu cuộc đời mình trong lần trốn về nhà bố. Thật ra, vì ham sống nên Mị không chấp nhận kiếp sống tủi nhục, chết ngay trong cõi sống. Nhưng với Mị, thời điểm ấy, cái chết là phương tiện để giải thoát chứ không phải là mục đích của Mị.

Mặt khác, Mị là cô gái sớm gặp bất hạnh, đau khổ đến cùng cực đồng thời còn là một nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi. Sự trinh trắng của người con gái bị A Sử cướp đoạt. Mị đau buồn có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã hái lá ngón ở trong rừng, giấu trong áo rồi trốn về nhà lạy chào cha lần cuối để tự tử. Nghe lời than vãn, phân trần của người cha ốm yếu, Mị không đành chết bởi lẽ Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Cho nên, Mị đành phải trở lại nhà thống lý để làm nô lệ. Mị bị giày xéo bị chà đạp gần như chỉ còn là công cụ biết nói: Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa (…). Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa. Mị bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn: con ngựa con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc cả ngày lẫn đêm. Dường như Mị bị chai lì mọi cảm giác đến mất cả đời sống ý thức: mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi. Sở dĩ Mị an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc. Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. Khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. Dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa. Hành động của Mị tới chỗ góc nhà lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. Trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã, tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi. Bất ngờ, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn tóc trên cột. Nhưng cái kiểu trói thời trung cổ ấy của A Sử vẫn không dập tắt được lòng ham sống vẫn âm ỉ, tiềm tàng trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo du dương trầm bổng, tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi trẻ mạnh đến nỗi tuy Mị bị trói nhưng vẫn không biết mình đang bị trói. Tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, và Mị cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: tay chân đau không cựa được. Tuy cả đêm ấy Mị phải trói đứng, khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức nhưng trong lòng cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui. Thật dữ dội làm sao cái sức sống ấy đặc biệt hình ảnh A Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của thân phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”. Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiềng Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng: ”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.

Phân tích nhân vật Mị
Phân tích nhân vật Mị

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân”, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình, Cứu A Phủ là Mị đã cứu mình một lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách dã man: tầng địa ngục phong kiến và tầng tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt. Đúng như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống cũng như không ai nỡ trách bông hạnh nở vươn ra ngoài tường khi sắc xuân đầy rẫy ngoài trời. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 4975 nói chung.

Qua hình tượng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đè nén, chà đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tàng của họ. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện hấp dẫn này.

Bài mẫu 5

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo đánh thép tội ác của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa rất thành công cả về hình thức lẫn tâm hồn.

Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn.

Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết.

Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.

 Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

Như vậy, bài viết đã hướng dẫn bạn Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Mị Xúc Động Và Điểm Cao Nhất. Hy vọng những kiến thức mà Trung tâm WElearn gia sư chia sẻ có thể giúp ích cho bạn trong việc học tốt môn Ngữ Văn hơn.

Xem thêm các bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

liên hệ Liên hệ