? Trung tâm gia sư WElearn chuyên giới thiệu, cung cấp và quản lý Gia sư.
? Đội ngũ Gia sư với hơn 1000 Gia sư được kiểm duyệt kỹ càng.
? Tiêu chí của chúng tôi là NHANH CHÓNG và HIỆU QUẢ. NHANH CHÓNG có Gia sư và HIỆU QUẢ trong giảng dạy.
Đất nước Việt Nam của chúng ta tuy nhỏ nhưng lại không thiếu những nhân tài toán học. Hãy cùng Trung tâm gia sư WElearn “điểm danh” top 10 nhà toán học Việt Nam nổi tiếng nhé
Họ và tên: Ngô Bảo Châu
Ngày sinh: 28/06/1972
Tư cách công dân: Pháp – Việt
Nghề nghiệp: Nhà toán học
Giải thưởng:
Gia đình:
Ông lớn lên trong gia đình trí thức ở Hà Nội
Là con của giáo sư Ngô Huy Cẩn (nguyên là giáo sư vật lý Viện Cơ học Quốc gia Việt Nam) và lương y Trần Lưu Vân Hiền (phó giáo sư tại Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương.)
Ngoài ra, ông còn là cháu họ của giáo sư Ngô Trúc Lanh – một trong những người viết ra cuốn sách Đại số đầu tiên.
Ông là học sinh chuyên toán trường THPT chuyên KHTN – trường Đại học KHTN Hà Nội
Khi học lớp 11 và 12, ông tham gia cuộc thi Olympic toán học quốc tế và đã giành huy chương vàng trong 2 năm liền, là học sinh Việt Nam đầu tiên giành hai huy chương vàng IMO với số điểm tuyệt đối 42/42
Sau khi hoàn thành chương trình THPT, ông sang Pháp du học và trở thành Giáo sư tại Đại học Paris-Sud 11 vào năm 2005.
Cũng chính năm đó, khi mới 33 tuổi, Ngô Bảo Châu chính thức trở thành giáo sư trẻ tuổi nhất Việt Nam
Lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Giảng dạy
Xuất bản một số bài báo:
Sách văn học: “Ai và Ky ở xứ sở những con số tàng hình” hợp tác cùng với Nguyễn Phương Văn bắt đầu viết tháng 4 năm 2011 và phát hành 19 tháng 3 năm 2012
Bùi Trọng Liễu (28/ 9/1934 – 5/3/2010). Là Tiến sĩ nhà nước về Toán học, là nghiên cứu viên tại Direction des Etudes et Recherches de l’EDF (1959–1963), là giáo sư đại học Lille (1963–1969), Đại học Paris (1969–2003).
Ông được xem như là “cầu nối” giữa Việt Nam với đại học Pháp, Mỹ và quốc tế.
Vợ ông là Colette Andrieu, một người Pháp, cũng là tiến sĩ nhà nước về toán học, phó giáo sư Đại học Paris 4.
Ông có 2 người con trai là Bùi Khảo Mạc và Bùi A Lanh đều là giáo sư và phó giáo sư tại các trường đại học có tiếng ở Pháp
Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức ở làng Nhuận Ốc, xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Thân phụ của ông là nhà tân học Bùi Văn Thiệp. Trước kia ông đã từng là quan đến chức Tuần phủ Thái Nguyên, rồi Tuần phủ Phúc Yên lúc trước Cách mạng Tháng Tám.
Những ngày còn nhỏ, ông học song song giữa 2 tiếng Pháp và Hán.
Dù theo gia đình sang Pháp từ khi 15 tuổi nhưng ông vẫn không bỏ quên tiếng mẹ đẻ của mình. Ông đã có rất nhiều tảng văn nghị luận, tranh biện hay trần thuật, hồi ký, tùy bút, tiểu phẩm bằng tiếng Việt.
Năm 1959 ông bảo vệ luận án tiến sĩ về ngành xác suất thống kê tại Đại học Paris với nhan đề “Sur quelques problèmes d’estimation concernant une chaîne de Markov”.
Ba năm sau, ông tiếp tục bảo vệ thành công luận án tiến sĩ quốc gia về khoa học toán học ở tuổi 28 tuổi với nhan đề luận văn là “Estimations pour des Processus de Markov”.
Năm 1981, ông được Đại tướng Võ Nguyên giáp mời về nước.
Năm 1988, ông sáng lập trường Đại học Thăng Long Hà Nội – trường đại học dân lập đầu tiên tại Việt Nam.
GS. Bùi Trọng Liễu đã trở thành chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp.
Là tác giả của 4 cuốn sách đã được xuất bản tại Việt Nam gồm:
Cuốn sách thứ 5 là tạp ký “Hướng về quê cũ lúc chiều tà”. Trong đó gồm các bài báo của ông đăng trên báo.
Ngoài ra, ông đã cho ra lò hàng trăm bài báo, tiểu luận, góp ý về cải cách giáo dục ở Việt Nam. Bài nào cũng thể hiện tấm lòng chân thành của ông dành cho quê hương, luôn mong muốn nền giáo dục ở quê hương được phát triển hơn.
Bên cạnh đó, ông là tác giả của khoảng 30 công trình Toán học từ năm 1960 đến 1996.
Dương Hồng Phong sinh ngày 30 tháng 8 năm 1953 tại Nam Định.
Là giáo sư Đại học Columbia. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu trong lĩnh vực Phương Trình Đạo Hàm Riêng, Hình học phức và Lý thuyết dây.
Giải thưởng:
Sau khi tốt nghiệp trung học ở Lycée Jean-Jacques Rousseau, Sài Gòn, ông học năm nhất đại học tại École Polytechnique Fédérale, Lausanne, Thụy Sĩ sau đó sang Mỹ học tại Đại học Princeton.
Năm 1977, ông bảo vệ luận văn với nhan đề “On Hölder and L sub p Estimates for the Conjugate Partial Equation on Strongly Pseudoconvex Domains” dưới sự hướng dẫn của Elias M. Stein tại Đại học Princeton
Từ 9/1977 đến 8/1978 ông là nghiên cứu viên của Viện nghiên cứu cao cấp, Princeton, Hoa Kỳ.
Đào Trọng Thi sinh ngày 23 tháng 3, năm 1951 tại xã Tân Hiệp, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Là một Giáo sư Toán học, một chính trị gia Việt Nam, cựu Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ông từng giữ các chức vụ quan trọng
Ông thuộc dòng tộc Đào Trọng ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng một dòng họ hiếu học và có nhiều người đỗ đạt, giữ các chức vụ cao trong các triều đại phong kiến Việt Nam xưa như:
Vào năm 1965 ông thi đậu và học lớp toán đặc biệt của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Năm 1968 ông đoạt giải ba kỳ thi học sinh giỏi Toán toàn miền Bắc Việt Nam.
Sau đó tốt nghiệp THPT với tấm bằng xuất sắc, ông được cử đi học đại học ở Liên Xô.
Từ năm 1970 đến 1974 Đào Trọng Thi học đại học tại Khoa Toán – Cơ, trường Đại học Tổng Hợp Lomonosov – Nga.
Ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ môn Hình học – Tôpô – Đại số của khoa Toán – Cơ năm 1979.
Năm 1984 ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học tại trường Đại học Tổng hợp Lomonosov.
Năm 1989 Đào Trọng Thi giữ chức vụ Chủ nhiệm Khoa Sau đại học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Ông được đặc cách trở thành Giáo sư mà không cần thông qua chức Phó giáo sư và trở thành một trong những giáo sư trẻ nhất của ngành Toán học và của giới khoa học Việt Nam lúc bấy giờ.
Năm 1993, ông giữ chức vụ Phó giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội kiêm Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
Ngoài ra, Ông công bố khoảng 26 công trình khoa học (theo thống kê của MathSciNet, Hội Toán học Hoa Kỳ) và là tác giả của sách chuyên khảo.
Đặng Đình Áng (1926 – 2020) là giáo sư toán học nổi tiếng của Việt Nam.
Ông nguyên là Trưởng ban Toán của Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn và là chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông cũng là người đầu tiên đưa toán học hiện đại vào miền Nam Việt Nam.
Ông được xem là một nhà giáo tiêu biểu có nhiều đóng góp cho ngành toán học Việt Nam.
Ngoài việc “làm bạn” với những con số, ông còn có một niềm đam mê với âm nhạc, nghệ thuật. Ông đã sở hữu một lượng “fan” lớn nhờ tài năng thổi sáo của mình với nhiều CD nhạc hòa tấu thính phòng hay.
Gia đình:
Ông sinh ra ở Hà tây và lớn lên trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật.
Gia đình ông đã có nhiều người thành danh trong lĩnh vực này như: Nhà thơ Đặng Đình Hưng là anh ruột; nhạc sĩ Thái Thị Liên là chị dâu và các nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn và Đặng Hồng Quang là cháu ruột của ông.
Năm 1953 đến 1955, ông học môn kỹ thuật hàng không vũ trụ Đại học Kansas (Hoa Kỳ) và nhận bằng cử nhân tại đó.
Sau đó, ông vào Viện Công nghệ California (CalTech) và nhận bằng tiến sĩ với một luận án về giải tích và cơ học năm 1958.
Năm 1988, ông làm chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành tựu:
Ngoài ra, ông có hơn 130 bài báo trong lĩnh vực phi tuyến và cơ học được công bố trên các tạp chí toán học trong và ngoài Việt Nam, sáu cuốn sách chuyên đề về giải tích và cơ học
Hà Huy Khoái (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1946) là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học ngành toán học của Việt Nam, cựu Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước thế giới thứ ba.
Lĩnh vực ông nghiên cứu chủ yếu là Lý thuyết Nevanlinna (p-adic và phức), không gian Hyperbolic, xấp xỉ Diophantine và các L-hàm.
Gia đình
Ông sinh làng Thịnh Xá, xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Trong gia đình ông còn có nhiều người theo nghiệp toán như giảng viên Hà Huy Hân – Học viện Kỹ thuật Quân sự; GS. TSKH Hà Huy Vui; GS. TSKH Hà Huy Bảng làm việc ở Viện Toán học Việt Nam.
Năm 1963, ông tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh, Nghệ An.
Năm 1967, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành toán học.
Năm 1978, ông bảo vệ luận án tiến sự của mình dưới sự hướng dẫn của giảng viên Yuri Ivanovich Manin, với đề tài p-Adic Interpolation and the Melin-Mazur Transform,
Năm 1984 ông đã trở thành tiến sĩ khoa học tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Trong sự nghiệp, ông đạt được những thành tựu
GS Hà Huy Khoái là một nhà sư phạm vừa có tài, vừa có đức. Ông đã “nắn” ra nhiều lứa học trò giỏi. Một trong số đó là PGS.TS. Tạ Thị Hoài An – nữ toán học trẻ tuổi, xuất sắc của Viện Toán học.
Ngoài ra, ông còn cùng những người cộng sự của mình tham gia một số công trình nghiên cứu khoa học.
Hoàng Xuân Hãn (1908 – 1996) là một nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục Việt Nam và cũng là một kỹ sư, nhà toán học.
Ông là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên.
Bên cạnh đó, ông cũng là người soạn thảo sách Danh từ khoa học với hơn 6 nghìn từ mục về các lĩnh vực toán, lý, hóa, cơ, thiên văn.
Thuở nhỏ ông học chữ Hán và chữ Quốc ngữ tại nhà.
Năm 1926, Hoàng Xuân Hãn đậu bằng Thành Chung, rồi ra Hà Nội học trung học ở trường Bưởi. Sau đó một năm, theo thiên hướng, ông lại chuyển sang học chuyên Toán ở Lycée Albert Sarraut.
Năm 1928, Hoàng Xuân Hãn đậu thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận học bổng sang Pháp học dự bị để thi vào các trường lớn.
Năm 1930, Hoàng Xuân Hãn đỗ vào trường École normale supérieure và Trường Bách khoa Paris. Hoàng Xuân Hãn chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.
Năm 1932 – 1934, Hoàng Xuân Hãn vào học École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris).
Năm 1934, Hoàng Xuân Hãn trở về Việt Nam 4 tháng rồi quay lại Pháp.
Từ năm 1934 đến năm 1936 Hoàng Xuân Hãn trở lại Pháp, đậu cử nhân toán 1935 và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).
Từ năm 1936 – 1939, Hoàng Xuân Hãn trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi. Song song với đó, ông cũng hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học.
Năm 1936, ông cho xuất bản tập giáo trình Éléments de trigonometrie (Cơ bản của lượng giác học), có lẽ là tập giáo trình Toán phương tây đầu tiên được viết bởi người Việt.
Từ năm 1939 – 1944, vì chiến tranh trường Bưởi phải dời vào Thanh Hóa. Tại đây, ông tìm thấy những tư liệu lịch sử về La Sơn Phu Tử và vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt.
Năm 1942, Hoàng Xuân Hãn cho xuất bản cuốn Danh từ khoa học của mình.
Năm 1943, Hoàng Xuân Hãn được mời dạy môn cơ học tại trường Đại học Khoa học.
Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiến về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Ngô Việt Trung (8/05/1953), ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam từ 2007 tới 2013, là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ ba.
Giải thưởng:
Quê ông ở xã Điện Quang, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông là con trai của Ngô Điền, nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Campuchia trong thời kỳ Khmer đỏ (1979-1991).
Ông từng là học sinh chuyên Toán Trường trung học phổ thông Việt Đức (Hà Nội). Năm 1969, ông giành giải nhất cuộc thi học sinh giỏi Toán toàn Miền Bắc. Sau đó, ở tuổi 16, ông sang Đức học đại học về Toán.
Tại Đức, ông lấy bằng thạc sĩ năm 1974, tiến sĩ năm 1978 và tiến sĩ khoa học năm 1983 tại Đại học Martin-Luther Halle-Wittenberg.
Những năm 1983 -1990, ông làm phó giáo sư tại Viện Toán học Việt Nam.
Từ năm 1991, ông trở thành giáo sư, trưởng phòng đại số và lý thuyết số Viện Toán học.
Ngoài ra, ông là giáo sư thỉnh giảng của nhiều Đại học danh tiếng ở châu Á, châu Âu.
Giáo sư Ngô Việt Trung được bầu làm viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước Thế giới thứ 3 (TWAS) năm 2000. Ông là viện sĩ thứ 7 người Việt Nam.
Hướng nghiên cứu chính của ông là đại số giao hoán và ứng dụng trong hình học đại số nên ông đã đóng góp một số nghiên cứu của mình cho khoa học.
Nguyễn Tiến Dũng (sinh năm 1970, tại Hà Nội) là một giáo sư Toán học mang hai quốc tịch Pháp và Việt Nam.
Ông giành huy chương vàng Olympic Toán quốc tế (IMO) vào năm 1985 ở tuổi 15 và cho đến nay vẫn là học sinh Việt Nam nhỏ tuổi nhất đạt thành tích này.
Năm 1985, ông đậu kỳ thi chọn đội tuyển IMO và cùng 5 học sinh khác tham dự IMO lần thứ 26 tại Phần Lan. Tại kì thi IMO, ông đã đoạt huy chương vàng với số điểm 35/42.
Năm 1986, Nguyễn Tiến Dũng sang Liên Xô học ở khoa Toán – Cơ, Đại học Tổng hợp Lomonosov.
Cuối năm 2 đầu năm 3, ông làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo sư A.T. Fomenko.
Khi đang là sinh viên năm cuối, ông đã có 4 bài báo khoa học đăng ở tạp chí toán có uy tín của Liên Xô cũ là Russian Math. Surveys, Adv. Soviet Math.
Tốt nghiệp cử nhân, ông làm việc tại Trung tâm Quốc tế Vật lý lý thuyết ở Trieste, Ý.
Năm 1994, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ toán học dưới sự hướng dẫn của giáo sư Michèle Audin tại Đại học Strasbourg.
Trước khi làm giáo sư chính thức ở Đại học Toulouse, Pháp, ông đã có thời gian sống và làm việc ở Montpellier, Pháp.
Năm 2007, Nguyễn Tiến Dũng được Ủy ban Quốc gia về đại học của Pháp (CNU) phong hàm giáo sư hạng nhất, khi mới 37 tuổi.
Năm 2015, ông được CNU phong hàm giáo sư hạng đặc biệt
GS Dũng làm việc trong nhiều lĩnh vực của toán học gồm: Hình học vi phân, hình học simpletic và hình học Poisson, lý thuyết ergodic và hệ động lực, vật lý toán, phương pháp toán trong tài chính, lý thuyết độ phức tạp…
Đến nay, ông đã sở hữu hơn 50 bài báo khoa học, trong đó có tạp chí hàng đầu như: Ann. of Math., Ann. Sci. École Norm. Sup., Lett. Math. Phys., Phys. Lett. A
Hoàng Tụy (7/12/1927 – 14/7/2019) là một giáo sư, nhà toán học tiêu biểu của Việt Nam.
Cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm, ông là một trong hai người tiên phong trong việc góp phần xây dựng ngành Toán học của Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn.
Hoàng Tụy được coi là cha đẻ của lĩnh vực Tối ưu hóa toàn cục (Global Optimization) trong Toán học ứng dụng.
Không riêng gì toán học, lĩnh vực giáo dục của Việt Nam cũng có bàn tay công sức của ông đóng góp vào. Ông cũng là sáng lập viên Viện Nghiên cứu Phát triển IDS mà ông là Chủ tịch Hội đồng Viện.
Đến năm 1950, ông Hoàng Tụy được kết nạp Đảng và trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Giải thưởng: Là người đầu tiên nhận được giải thưởng Constantin Caratheodory do Đại hội Quốc tế Tối ưu Toàn cục đề xướng cho những đóng góp tiên phong và nền tảng của ông trong lĩnh vực này
Ông được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có “nề nếp học giỏi”
Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trung học, thiên tướng toán học của ông đã được bộc lộ.
Năm 1946, ông đỗ kỳ thi tú tài phần một và toàn phần ban toán tại Huế.
Ông theo học Đại học Khoa học ở Hà Nội nhưng bỏ dở. Sau đó ông được trường trung học Lê Khiết ở Liên khu V mời về để làm giáo viên dạy toán.
Năm 1951, ông theo học Trường khoa học cơ bản do Lê Văn Thiêm phụ trách.
Năm 1954, Hoàng Tụy trở thành giáo viên dạy toán của trường Đại học Khoa học – nơi ông từng bỏ dở việc học của mình.
Năm 1959, Hoàng Tụy xuất sắc trở thành một trong hai người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ khoa học toán – lý tại Đại học Lomonosov tại Moskva, dưới sự hướng dẫn của nhà toán học Nga Dmitry Evgenevich Menshov.
Từ năm 1961 – 1968 ông là Chủ nhiệm Khoa Toán của Đại học Tổng hợp Hà Nội;
Năm 1980 – 1989, ông làm Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam từ năm 1980 đến 1989.
Năm 2007, ông cùng 9 người cộng sự của mình thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển IDS. Và chính ông là người nắm giữ chức Chủ tịch Hội đồng Viện
GS Hoàng Tụy đã có một số bài viết phê phán, góp ý thẳng thắn về sự yếu kém, lạc hậu và tiêu cực trong ngành giáo dục Việt Nam cũng như tham gia nhiều hội nghị tham luận về cải cách giáo dục.
Như vậy, với thông tin, tiểu sử và sự nghiệp rõ ràng, chắc hẳn các bạn đã hiểu hơn và tự hào rất nhiều về các nhà toán học Việt Nam rồi đúng không? Chúng mình hãy cùng cố gắng học tập thật tốt và noi theo gương của các ngài nhé.
Xem thêm các bài viết liên quan
? Trung tâm gia sư WElearn chuyên giới thiệu, cung cấp và quản lý Gia sư.
? Đội ngũ Gia sư với hơn 1000 Gia sư được kiểm duyệt kỹ càng.
? Tiêu chí của chúng tôi là NHANH CHÓNG và HIỆU QUẢ. NHANH CHÓNG có Gia sư và HIỆU QUẢ trong giảng dạy.
Bài viết cùng chủ đề